Diễn đàn cây thuốc nam – Kết nối chuỗi giá trị cây thuốc nam › Diễn đàn › Những nhu cầu khác › CÂY THUỐC, BÀI THUỐC CHỮA BỆNH Ở NGƯỜI BAHNAR TẠI TỈNH GIA LAI
Chủ đề này bao gồm 3 phản hồi, có 2 voice, và đã được cập nhật lần cuối cùng cách đây khoảng Phạm Hải Bình 4 năm, 7 tháng trước.
-
Người viếtBài viết
-
20-04-2020 vào lúc 03:12 #1380
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VÀ BẢO TỒN CÂY THUỐC, BÀI THUỐC CHỮA BỆNH Ở NGƯỜI BAHNAR TẠI TỈNH GIA LAI
Nguyễn Phúc Hưng , Đào Huy Khuê , Nguyễn Văn Thắng
Dân tộc Bahnar là một dân tộc thiểu số có dân số khá đông trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Do đặc điểm dân tộc và những điều kiện địa lý của nơi sinh sống, ít được tiếp cận với y học hiện đại nên người Bahnar có những hiểu biết quý báu về thu hái, bảo quản, chế biến, sử dụng các cây thuốc và bài thuốc để chữa bệnh cho mình, kể cả những bệnh hiếm gặp, hiểm nghèo. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu mang tính tổng thể, toàn diện và cập nhật về tinh hình sử dụng và bảo tồn các cây thuốc và bài thuốc của người Bahnar. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm sưu tầm và tìm hiểu về tình hình sử dụng các cây thuốc, bài thuốc để chữa bệnh ở cộng đồng người Bahnar tại Gia Lai, nhằm góp phần giữ gìn, lưu truyền, phát huy và phổ biến rộng rãi.
Tổng số các cây thuốc, bài thuốc thu thập được ở người Bahnar cho thấy, các cây thuốc, bài thuốc thu được phân bố khá đồng đều trong cả 4 huyện khảo sát và số lượng cây thuốc, bài thuốc của cộng đồng người Bahnar tại mỗi huyện sử dụng để chữa bệnh là khá phong phú, dao động từ 72 đến 83 cây thuốc, bài thuốc.
Một đặc điểm nổi bật của các bài thuốc của người Bahnar đó là có những bài thuốc chỉ có 1 vị (độc vị) và những bài thuốc gồm nhiều vị (đa vị). Bài thuốc độc vị thường gồm 1 (hoặc 2, 3) bộ phận được lấy từ 1 cây thuốc sau khi đã được chế biến và được dùng để chữa 1 bệnh hoặc vài bệnh cùng nhóm. Bài thuốc đa vị là bài thuốc có sự tham gia của 1 (hoặc 2, 3) bộ phận của hai cây thuốc trở lên. Hầu hết các bài thuốc độc vị hoặc các bài thuốc đa vị nhưng chỉ gồm 2-3 vị thường do đồng bào người Bahnar không chuyên về nghề y trong các buôn làng cung cấp, trong khi đó, bài thuốc đa vị gồm từ 3 vị trở lên thường do các thầy lang, lương y tại các địa phương cung cấp. Có lẽ kiến thức chuyên sâu về nghề y là nguyên nhân chính tạo nên sự khác biệt về số vị trong các bài thuốc này. Hơn nữa, đặc điểm và nguồn gốc các bài thuốc này cũng phản ánh điều kiện chăm sóc y tế của người Bahnar sống trong buôn làng, ít có cơ hội được tiếp xúc và chăm sóc y tế thì họ phải tự có cách chữa bệnh cho mình. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, những bài thuốc độc vị hoặc đa vị mà người dân trong các buôn làng cung cấp cũng cần đạt được công dụng nhất định trong việc điều trị bệnh để chúng tồn tại và lưu truyền trong cộng đồng người Bahnar.
Một số bệnh thường gặp ở cộng đồng người Bahnar tại địa bàn nghiên cứu bao gồm: Bệnh đau bụng; tiêu chảy; bệnh ngoài da; bệnh phụ khoa ở phụ nữ; bệnh xương khớp; cầm máu, chấn thương. So sánh giữa các nhóm bệnh, tỷ lệ các cây thuốc, bài thuốc được sử dụng để chữa bệnh đau bụng, tiêu chảy là cao nhất ở tất cả các huyện, dao động từ 13,8% ở huyện Mang Yang đến 26,2% ở huyện Kông Chro. Kết quả này là phù hợp với thực tế khi người mắc bệnh nhiễm khuẩn đường ruột thường chiếm tỷ lệ cao. Hơn nữa, điều kiện sinh hoạt và vệ sinh ăn uống ở cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và người Bahnar nói riêng thường kém và là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy cao.
Các cây thuốc, bài thuốc sử dụng để cầm máu và điều trị chấn thương cũng chiếm tỷ lệ khá cao trong cộng đồng người Bahnar trên địa bàn nghiên cứu, từ 10,7% đến 14,6%. Điều này có thể lý giải là do việc sinh hoạt, lao động và di chuyển của người Bahnar gắn với điều kiện địa lý không thuận lợi nên các chấn thương cũng có thể thường gặp trong cuộc sống.
Nhìn chung, cách chế biến sau thu hái cây thuốc của đồng bào dân tộc Bahnar là khá phong phú. Tùy tính cấp bách của bệnh và tùy tình hình cụ thể khi thu hái mà bà con thường có các cách chế biến khác nhau, phổ biến đều diễn ra dưới các hình thức như: phơi nguyên bộ phận thu hái; phơi hoặc sấy sau khi thái nhỏ; sao vàng hạ thổ; giã nát hoặc vò nát rồi vắt lấy nước hoặc sử dụng trực tiếp; đun sôi với nước rồi sử dụng; ngâm rượu uống; nấu cao v.v. Như vậy, có thể thấy đồng bào Bahnar có các cách chế biến các bộ phận của cây làm thuốc khá phong phú, trong đó, đều sử dụng các cách khá phổ biến và giống như dân tộc Kinh. Về thời gian thu hái, tùy mùa sẽ có hiệu quả khác nhau và chỉ một hoặc vài bộ phận trên cùng một loại được thu hái làm thuốc. Nhìn chung, hầu hết các bộ phận của cây thuốc có thể thu hái làm thuốc như rễ, thân, lá, hoa, quả, hạt, nhựa cây.
Cách đưa thuốc vào cơ thể của người Bahnar cũng rất đa dạng. Các cách thức phổ biến bao gồm: nhai trực tiếp bộ phận của cây thuốc rồi nuốt hoặc ngậm; uống nước vắt, sắc, nấu; giã nát rồi đắp hoặc bôi lên vết thương hay bộ phận bị đau; hơ cây thuốc trên lửa rồi xông, hít khói; đun với nước rồi xông hơi nước v.v. Thời gian sử dụng cây làm thuốc phụ thuộc vào trạng thái bệnh tật, tuổi tác, bản thể, cây thuốc và bài thuốc, thời tiết, mùa dùng thuốc. Số thang hoặcsố lần dùng thuốc chữa bệnh của người Bahnar khá đơn giản. Người bệnh thường được dùng 1 thang (lần)/ngày. Số ngày dùng thuốc có thể thay đổi từ 1-2 ngày như bài thuốc chữa Chảy máu cam đến 5-7 ngày như bài thuốc chữa bệnh Trĩ hoặc 7-10 ngày như bài thuốc chữa bệnh Mẩn ngứa, thậm chí 15-20 ngày. Các bài thuốc bổ dưỡng thường được sử dụng trong một vài tháng, trong khi một số bệnh khác có thể phải dùng lâu dài hơn hoặc cho đến khi khỏi bệnh.
Người Bahnar khai thác các cây thuốc, bài thuốc dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình 1 thể hiện một số nguồn khai thác chính đang được đồng bào Bahnar sử dụng. Có thể nhận thấy, đa số người dân sử dụng cây thuốc thông qua việc tự thu hái ở rừng với 70,3%, tiếp đến là hình thức tự trồng trong vườn với 64,9% và cuối cùng là thông qua việc bà con, họ hàng cho tặng với 51,4%. Như vậy, dựa vào điều kiện tự nhiên, nơi sinh sống của người dân tộc Bahnar có diện tích đất rừng lớn, người dân chủ yếu vẫn lấy cây thuốc thông qua việc thu hái ở rừng là chính. Tuy nhiên, do người Bahnar ý thức được tầm quan trọng của cây thuốc trong cuộc sống nên đã có tỷ lệ khá lớn người dân tự trồng cây thuốc tại nhà.
Do các cây thuốc, bài thuốc có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người Bahnar nên họ luôn có ý thức lưu giữ và bảo tồn. Hình thức lưu giữ và bảo tồn khá đa dạng: thông qua truyền miệng trong gia đình; thông qua hình thức dạy khi cùng đi lấy thuốc trên rừng; qua ghi chép thành tài liệu; qua việc tuyên truyền, phổ biến trên báo, đài, ti vi; qua việc viết thành sách trong hội Đông y và các hình thức bảo tồn khác. Trong các hình thức bảo tồn này, hình thức truyền miệng trong gia đình là hình thức được người dân tộc Bahnar sử dụng nhiều nhất với 99,1%; tiếp theo là hình thức dạy khi cùng đi lấy thuốc trên rừng với 86,5%. Cả hai hình thức này thường diễn ra giữa những người thân trong gia đình, dòng họ chứ không phải phổ biến với cộng đồng. Sở dĩ hai hình thức này chiếm tỷ lệ cao là do phong tục đề cao tính gia truyền, bảo mật đối với việc lưu giữ và sử dụng các cây thuốc, bài thuốc, nghĩa là chỉ những người trong gia đình mới được truyền lại các cây thuốc, bài thuốc đó. Các hình thức lưu truyền dễ được phổ biến rộng rãi hơn đó là: ghi chép thành tài liệu; tuyên truyền, phổ biến trên báo, đài, ti vi hay thông qua việc viết thành sách trong hội Đông y thì chiếm số lượng không lớn, dao động từ 45,9% đến 48,6%.
Các cây thuốc, bài thuốc được người Bahnar coi như là nghề gia truyền nên họ muốn lựa chọn hình thức truyền miệng cho những người trong gia đình nhiều hơn. Tuy nhiên, hình thức lưu truyền như truyền miệng hoặc dạy khi đi lấy thuốc trên rừng là những hình thức dễ bị thất lạc và mai một. Vì thế, việc lưu giữ cây thuốc, bài thuốc của người Bahnar nói riêng và người dân tộc thiểu số nói chung đã và đang gặp những khó khăn nhất định. Hình 3 thể hiện những khó khăn trong việc lưu truyền và bảo tồn các cây thuốc, bài thuốc của người Bahnar.
Khó khăn lớn nhất là những người biết cây thuốc, bài thuốc già và chết đi. Có tới 90,2% số người dân cho rằng khó khăn nhất trong việc lưu giữ cây thuốc là do những người biết về cây thuốc họ đã già và chết đi. Như đã phân tích ở trên, việc truyền miệng trong gia đình là hình thức được sử dụng nhiều nhất để lưu truyền các cây thuốc, bài thuốc của người Bahnar. Tuy nhiên, chính điều này dẫn đến khó khăn lớn nhất khi lưu truyền, bảo quản cây thuốc, bài thuốc. Khó khăn tiếp theo là cây thuốc, bài thuốc không được lưu trữ thành văn, tức là ghi chép thành văn bản, sách để lưu giữ lại. Lưu trữ trên văn là hình thức lưu trữ tốt nhất, tuy nhiên, hình thức này vẫn chưa được áp dụng nhiều bởi vì thói quen lưu trữ qua truyền miệng (có thể là truyền miệng trong gia đình hoặc truyền miệng khi đi rừng hái thuốc). Một điều dễ lý giải tại sao hình thức lưu giữ cây thuốc không được ghi chép thành văn bản còn do người dân ở đây là dân tộc thiểu số, trình độ hiểu biết còn hạn chế, đa số người dân mới chỉ dừng lại ở bậc tiểu học, tỉ lệ người dân mù chữ khá cao, chiếm tới hơn 20%. Vì vậy, việc bà con đồng bào lưu giữ các cây thuốc, bài thuốc thành văn bản là việc làm khó khăn. Việc các lương ly, thầy lang biết chữ, các cơ quan quản lý, ngành Y tế tiến hành sưu tầm, lưu trữ các cây thuốc, bài thuốc của người Bahnar dưới dạng sách, văn bản là việc làm cần thiết để giữ gìn các cây thuốc, bài thuốc quý giá này.
Ngoài những khó khăn kể trên, việc cây thuốc, bài thuốc dân gian của người Bahnar khó lưu truyền, bảo tồn còn do những khó khăn khác như: không có tên tiếng việt (83,0%), cây thuốc càng ngày càng hiếm (80,4%) hay các cơ quan quản lý, ngành Y tế chưa có chính sách phù hợp để khuyến khích đồng bào phổ biến và lưu truyền các cây thuốc, bài thuốc. Từ những khó khăn kể trên, việc chính quyền, các cơ quan liên quan, đặc biệt là ngành Y tế có các chủ trương và hoạt động tích cực và kịp thời như: sưu tầm và viết lại thành sách, văn bản; vận động người dân công bố; có chính sách ưu tiên khai thác và bảo tồn; tuyên truyền và phổ biến rộng rãi ở cộng đồng; thành lập Hội Đông Y cơ sở để sưu tầm và khai thác v.v sẽ là những biện pháp cần thiết, cấp bách và đem lại hiệu quả cao trong việc lưu truyền và bảo tồn các cây thuốc, bài thuốc quý giá của người Bahnar.
Qua nghiên cứu này, chúng tôi đã thu thập được 311 cây thuốc, bài thuốc của cộng đồng người Bahnar tại tỉnh Gia Lai. Các cây thuốc, bài thuốc được sử dụng để chữa và điều trị hầu hết các nhóm bệnh thường gặp, trong đó tỷ lệ các cây thuốc, bài thuốc sử dụng để chữa và điều trị nhóm bệnh đường tiêu hóa, cầm máu, chấn thương là phổ biến nhất. Đây là những dữ liệu quý giá để lưu giữ, bảo tồn và phổ biến rộng rãi các cây thuốc, bài thuốc của người Bahnar. Nghiên cứu cũng chỉ ra, việc khai thác các cây thuốc, bài thuốc chủ yếu vẫn từ nguồn thu hái trong rừng, tuy nhiên, nhiều người dân đã có ý thức tự trồng cây thuốc để chủ động nguồn dược liệu. Vẫn tồn tại nhiều khó khăn trong việc lưu giữ và bảo tồn các cây thuốc, bài thuốc của người Bahnar, trong đó, khó khăn lớn nhất là các cây thuốc, bài thuốc của đồng bào vẫn chủ yếu được truyền miệng và truyền lại cho những người trong gia đình, thân cận. Chính quyền địa phương và ngành Y tế cần có chính sách và các hoạt động kịp thời nhằm sưu tầm và lưu giữ lại các cây thuốc, bài thuốc, đặc biệt, việc lưu giữ dưới dạng sách, văn bản nhằm bảo tồn và công bố rộng rãi là điều rất cấp bách và cần thiết.20-04-2020 vào lúc 03:20 #1381Câu chuyện của người Bahnar giống câu chuyện của người Tày, người Nùng ở miền núi phía Bắc quá. Cách đây gần 10 năm, tôi tham gia 1 nghiên cứu về bảo tồn cây thuốc như 1 tri thức bản địa tại huyện Thông Nông, Cao Bằng. Rất nhiều bài thuốc, cây thuốc quý cũng theo người già đi sang thế giới bên kia. Suốt bao nhiêu nhăm nghĩ về nhưng câu chuyện này.
20-04-2020 vào lúc 04:04 #1384Về cơ bản, các tộc người thiểu số đều dùng cây, cỏ,… để chữa bệnh, mà người già là nhóm gìn giữ nhiều nhất tri thức của tộc người họ. Vậy, cần có đa dạng các hình thức trao truyền nhằm trách mai một những cây thuốc, bài thuốc quý của dân tộc
20-04-2020 vào lúc 07:53 #1385Mình không nghĩ “Đa dạng hình thức trao quyền” là giải pháp, cho đến những năm gần đây việc truyền tri thức từ thế hệ trước sang thế hệ sau mới bị ảnh hưởng nhiều, có thể coi đây là ĐỨT GÃY VĂN HÓA không TS Thắng? Còn nguyên nhân tai sao thì chắc phải nghiên cứu kỹ.
- Phản hồi này đã được điều chỉnh 4 năm, 7 tháng trước bởi Phạm Hải Bình.
-
Người viếtBài viết
Bạn cần đăng nhập để phản hồi chủ đề này.